Thiết kế bộ câu hỏi

by Kinh Nguyen

[giux1edbi-thiux1ec7u]

Sử dụng bộ câu hỏi và phỏng vấn là một phương pháp thu thập dữ kiện phổ biến trong nghiên cứu lâm sàng, dịch tễ học, tâm lí xã hội và dân số học. Các bác sĩ là những người thực hành nhiều nhất với các bộ câu hỏi và phỏng vấn trong công việc hàng ngày: khai thác bệnh sử là một hình thức phỏng vấn bằng bộ câu hỏi và được ghi nhận theo một quy trình xác định (hồ sơ bệnh án) hay thực hiện dạng một cuộc phỏng vấn mở. Bộ câu hỏi còn có các dạng như bảng hướng dẫn phỏng vấn, bảng kiểm hay gọi chung là phương tiện nghiên cứu.

Định nghĩa: Bộ câu hỏi đơn giản là một danh sách các câu hỏi được viết hoặc in và được người trả lời hoàn thành hoặc người khác hoàn thành cho người trả lời. Bảng hướng dẫn phỏng vấn là danh sách các câu hỏi cấu trúc (hoăc ít cấu trúc, mở) được người phỏng vấn đọc hoặc diễn đạt lại (có hoặc không có thăm dò) khi phỏng vấn người trả lời. Người phỏng vấn sau đó ghi lại nguyên văn câu trả lời (đối với câu hỏi mở) hoặc ghi nhận theo các đáp án xác định trước (hoặc thậm chí đã mã hóa trước) hoặc theo các phân nhóm xác định ra từ câu trả lời.

[phuxe2n-loux1ea1i]

Bộ câu hỏi gửi qua bưu điện dù có chi phí thấp nhưng lại đòi hỏi người trả lời phải trình độ học vấn tương đối và thường cho tỷ lệ phản hồi không cao. Hơn nữa, không có gì đảm bảo rằng những người trả lời là không khác biệt so với người không trả lời (thường là khác nhau).

Phỏng vấn qua điện thoại dễ thực hiện trong khu vực đô thị, nhưng có thể bỏ sót những người không có điện thoại hoặc những người đang đi làm. Phương pháp này ít được sử dụng trong các nước đang phát triển, ngoại trừ các nghiên cứu rất chọn lọc.

Phỏng vấn mặt đối mặt do một người phỏng vấn đã được tập huấn là dạng phổ biến nhất trong các khảo sát cộng đồng và nghiên cứu lâm sàng.

Bộ câu hỏi chuẩn hoặc bảng kiểm là những bộ câu hỏi được soạn riêng biệt sử dụng để với các phương pháp tính điểm và phân tích cụ thể. Ví dụ như bảng chỉ số y học Cornell, bảng điều tra dư luận về y tế, bảng hướng dẫn điều tra sinh sản quốc tế, các bảng đánh giá tâm lý như Minnesota Multiphasic Personality Inventory, bộ câu hỏi tim mạch của London School of Hygiene. Bộ câu hỏi này rất hữu ích trong điều tra cộng đồng về bệnh tim mạch do người phỏng vấn được tập huấn mà không phải là bác sĩ. Các câu trả lời được sử dụng để “chẩn đoán” các tình trạng bệnh lý lâm sàng cụ thể (đau thắt ngực, đau nghi nhồi máu, đau cách hồi mạch máu) bằng cách tính điểm câu trả lời theo các câu hỏi cụ thể. Hầu hết là người nghiên cứu tự soạn lấy bộ câu hỏi.

[mux1ee5c-ux111uxedch]

Phỏng vấn mặt đối mặt cho phép:

  1. làm rõ các câu hỏi;

  2. thăm dò câu trả lời (nếu được phép);

  3. sử dụng được phương tiện trực quan;

  4. tỉ lệ trả lời cao; và

  5. hoàn thành bộ câu hỏi nhanh.

Tuy nhiên, cách này tốn kém, đòi hỏi phải huấn luyện người phỏng vấn và có thể đưa ra sai lệch do người phỏng vấn. Việc tuyển chọn được người phỏng vấn thành thạo là khó.

Các thông tin thu thập bằng bộ câu hỏi có thể là:

  1. thực tế, như tuổi hay bệnh lý;

  2. kiến thức, ví dụ về dịch vụ và các chương trình;

  3. thái độ/ý kiến, ví dụ về biện pháp tránh thai, tiêm chủng và cho con bú;

  4. hành vi, như sử dụng các dịch vụ y tế, y học cổ truyền, chăm sóc trước khi sinh, vệ sinh răng miệng, kiểm tra sức khỏe định kỳ và hút thuốc lá;

  5. tuân thủ điều trị; và

  6. thông tin về người khác, ví dụ hỏi bà mẹ về con hoặc chồng mình; hỏi hàng xóm về một sự kiện trong vùng, hay liệu phụ nữ có vẫn được đỡ đẻ bởi các bà mụ không.

[cuxe1c-yux1ebfu-tux1ed1]

Các yếu tố cần được xem xét trong thiết kế bao gồm:

  1. các mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu chính;

  2. giả thuyết nghiên cứu: những dữ kiện nào cần để chấp nhận hoặc bác bỏ giả thuyết;

  3. dữ kiện cần thu thập;

  4. kế hoạch phân tích và các bảng câm để không bỏ sót thông tin quan trọng;

  5. kinh phí; và

  6. đối tượng được phỏng vấn hay dân số mục tiêu: tuổi, giới tính, tôn giáo, ngôn ngữ, phong tục, sự xuất hiện của người lạ trong nhà (có thể phỏng vấn người vợ vắng mặt chồng không?); trên hết liệu người được hỏi có khả năng đưa ra các câu trả lời yêu cầu không?

Câu hỏi đóng và câu hỏi mở

Câu hỏi đóng có cấu trúc có những ưu điểm là:

  • tập trung và đi thẳng vào những mục tiêu nghiên cứu,

  • dễ quản lý,

  • thống nhất,

  • được mã hóa trước và do đó dễ phân tích, và

  • phân tích nhanh.

Dạng này được ưa thích trong các nghiên cứu y học.

Câu hỏi mở rất hữu ích cho các điều tra về nhân loại học và về xã hội. Một số câu hỏi trong các điều tra y tế có thể để mở, nhưng càng ít càng tốt. Dạng câu hỏi như vậy cho phép người được phỏng vấn nói tự do và đầy đủ hơn nhưng có thể bị lạc đề. Dạng câu hỏi này cũng cần phải mã hóa riêng biệt sau khi kết thúc phỏng vấn và do đó kéo dài thời gian phân tích.

Hình thức câu hỏi có cấu trúc

Câu hỏi có cấu trúc có thể đưa ra:

  1. lựa chọn nhị giá “có” hoặc “không”, “chấp nhận” hoặc “không chấp thuận”, hoặc “hiệu quả” hoặc “không hiệu quả”. Câu hỏi thuộc loại này cần luôn bao gồm một lựa chọn “không biết”.

  2. nhiều lựa chọn:

    Ví dụ: Chị sẽ đi gặp ai đầu tiên để tư vấn về các phương pháp tránh thai?

    • bà mụ;

    • bạn bè hoặc hàng xóm;

    • mẹ chồng;

    • y tá;

    • bác sĩ;

    • dược sĩ;

    • người khác (ghi rõ).

  3. một thang đánh giá như thang điểm có nội dung khác biệt theo từng cấp cần người trả lời xếp mức độ câu trả lời của họ vào giữa hai thái cực (ví dụ như “xấu” với “tốt”, “chấp nhận” với “không chấp thuận”).

    Ví dụ: Xấu 1 2 3 4 5 6 7 Tốt

    Chấp nhận 1 2 3 4 5 không chấp nhận

    Những thang điểm mở rộng như thế này là do người nghiên cứu đặt ra và chắc chắn là gây khó hiểu cho nhiều người.

  4. một câu trả lời bằng số, ví dụ “Bạn bao nhiêu tuổi? "

  5. một cơ hội để thăm dò nhằm gợi ra câu trả lời cụ thể hơn. Đôi khi có thể thực hiện việc thăm dò nhưng người phỏng vấn cần được tập huấn để đảm bảo sự thống nhất trong cách tiếp cận này.

Ngôn ngữ và phong cách diễn đạt

Cần viết câu hỏi bằng ngôn ngũ phù hợp với trình độ người trả lời. Cần sử dụng theo cách giao tiếp thông thường hằng ngày hoặc tiếng địa phương. Trong các nghiên cứu giữa nhiều nền văn hóa, bộ câu hỏi được dịch từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ địa phương hoặc phương ngữ. Ví dụ từ tiếng Anh sang tiếng Swahili. Bộ câu hỏi sau đó được dịch ngược trở lại tiếng Anh bởi một nhà ngôn ngữ học độc lập để kiểm tra và sửa chữa bất kỳ sự hiểu lầm nào.

Tránh câu hỏi dẫn dắt, ví dụ “Chị nghĩ rằng dụng cụ tử cung không an toàn hơn thuốc uống phải không?” Tốt hơn là nên hỏi: “Chị nghĩ phương pháp nào an toàn hơn, dụng cụ tử cung hay thuốc tránh thai?". Tránh các thuật ngữ chuyên ngành và từ viết tắt.

Mã hóa câu trả lời theo câu hỏi

Các đáp án cần bao gồm tất cả các câu trả lời có thể có. Điều này thường có nghĩa là đưa vào các lựa chọn như “không biết”, “đôi khi” hoặc “có thể”. Thời gian phân tích sẽ được tiết kiệm rất nhiều nếu câu trả lời được phân mức ngay lúc được ghi nhận. Ví dụ, trả lời cho câu hỏi: "Khi anh/chị tới phòng khám thì có bác sĩ ở đó không?“ có thể được mã hóa:

Luôn luôn  4 Thông thường  3 Đôi khi  2 Không biết  1

Các đáp án phải loại trừ lẫn nhau, nghĩa là không được chồng chéo nhau.

Không nên để trống bất kì chỗ mã hóa nào vì một chỗ trống có thể có nghĩa là câu hỏi bị vô tình hoặc cố tình bỏ qua. Vì lí do này, tất cả những câu hỏi mà có thể sẽ được bỏ qua trong một số nhóm người trả lời (như câu hỏi về tuổi con trpmg nhóm các cặp vợ chồng chưa có con) phải được mã hóa là “NA” (không thích hợp), thường mã hóa là 9 hoặc 99.

Một số dạng dữ kiện để ghi nhận tốt nhất cần thông qua một định dạng kiểu “dòng thác”. Trong ví dụ ở Hình [fig:flowflow], ta thấy được việc sử dụng nhiều câu hỏi để tìm câu trả lời cho một câu hỏi chính phía sau nhưng không được hỏi thẳng, “Anh chị học được bao nhiêu điều mới từ các áp phích về kế hoạch hóa gia đình?” Chú ý là tất cả các đáp án được xem như một trả lời cho câu hỏi này được tổng hợp từ câu trả lời của các câu hỏi thay thế. Chú ý rằng tất cả các câu trả lời được xem như dành cho một câu hỏi duy nhất và được mã hóa một ô (thay vì dùng 3 ô mã hóa cho 3 câu hỏi).

VÍ DỤ ĐỊNH DẠNG KIỂU DÒNG THÁC CỦA BỘ CÂU HỎI

VÍ DỤ ĐỊNH DẠNG KIỂU “DÒNG THÁC” CỦA BỘ CÂU HỎI

Độ dài của bộ câu hỏi

Hầu hết các chuyên gia khảo sát nhất trí là độ dài hợp lý một của bộ câu hỏi là một người chỉ cần dưới 30 phút để hoàn tất một cuộc phỏng vấn có cấu trúc. Kéo dài thời gian này đến 45 phút cũng được tán thành, nhưng dài hơn thì là phản tác dụng. Thực tế là một người phỏng vấn được huấn luyện có thể duy trì được sự hứng thú của một người trả lời trong vòng một giờ, đặc biệt là trong một cuộc phỏng vấn mở, nhưng điều này hiếm và tốn kém. Hầu hết các cuộc phỏng vấn ngày nay được thực hiện bởi người phỏng vấn bán chuyên nghiệp với được tập huấn ứng biến. Rất ít người trong số họ có thể tiến hành các cuộc phỏng vấn kéo dài mà không mệt mỏi và sẽ làm sai lệch câu trả lời.

Hai phương tiện để đảm bảo độ tin cậy có thể sử dụng:

  1. tính tin cậy vốn có, đạt được qua việc lặp lại những câu hỏi nhất định, diễn đạt lại câu hỏi mà vẫn giữ nguyên hoặc tương đương mã hóa của lựa chọn trả lời; và

  2. tính tin cậy lặp lại, đạt được qua việc lập lại phỏng vấn với một phần nhỏ người được phỏng vấn (chọn ngẫu nhiên). Thông thường, các câu hỏi thực tế được sử dụng để đo lường độ tin cậy: các câu hỏi về quan điểm không cho đo lường trực tiếp về tính tin cậy, vì con người sẽ thay đổi suy nghĩ từ lần này qua lần khác. Tuy nhiên, sự thay đổi quan điểm có thể là chủ đề nghiên cứu của các nghiên cứu về phương pháp.

Một số câu trong một bộ câu hỏi có thể được xác nhận trong những khảo sát nhất định. Ví dụ, các hồ sơ bệnh án có thể được kiểm tra đối chiếu với câu trả lời của phụ nữ đã sử dụng thuốc tiêm đều đặn từ phòng khám trong vòng 12 tháng trước đây.

Một dạng kiểm tra tính giá trị khác là là tính nhất quán hoặc kiểm tra chéo. Một người phụ nữ 18 tuổi không thể có con đang ở độ tuổi 10 tới 15; một người phụ nữ với hai lần mang đơn thai không thể có ba ca tử vong sơ sinh. Công việc tẻ nhạt này có thể được thực hiện bằng máy tính.

Bộ câu hỏi nên được bố trí khéo léo để dễ nhìn và có tính thẩm mỹ. Tuy nhiên, bộ câu hỏi không nên trở thành một ấn phẩm trưng bày và cần cân nhắc nghiêm túc về kinh phí. Không thể chi tiền không cần thiết vào để làm một bộ câu hỏi.

Các câu hỏi cần được hỏi theo một trình tự hợp lý. Sau đây là một số hướng dẫn chung:

  1. Giới thiệu: một phần giới thiệu rõ ràng, súc tích và liên quan đến câu hỏi là rất có ích. Cần có nội dung để xác định danh tính của người nghiên cứu hoặc người phỏng vấn cùng với một cơ quan tương ứng. Cần chỉ rõ mục đích của bộ câu hỏi và loại bỏ được mọi sự e ngại từ người được phỏng vấn. Đôi khi cần phải có các giấy tờ chứng minh.

  2. Trang bìa hoặc trang nhận dạng. Trang này thường có:

    • Tên của cuộc khảo sát và các tổ chức chịu trách nhiệm;

    • Mã số của người trả lời hoặc hộ gia đình; và

    • Tên của người phỏng vấn và ngày phỏng vấn.

  3. Cần bắt đầu bộ câu hỏi với các câu hỏi khởi đầu hoặc phát biểu mở đầu. Không bắt đầu với các câu hỏi mang tính đe dọa về thu nhập và các vấn đề nhạy cảm khác.

  4. Việc chuyển đổi từ phần này đến phần khác nên liền mạch.

  5. Trong phần nội dung của bộ câu hỏi, nên sử dụng hợp lý các định dạng chuẩn cho hướng dẫn: các khung để hướng dẫn và mũi tên để chỉ dẫn cần bỏ qua phần nào (hướng dẫn cho một đối tượng nhất định những câu hỏi cần bỏ qua, xem Hình 3).

  6. Hướng dẫn: Hai khả năng có thể dự tính (i) sử dụng một tờ hướng dẫn riêng biệt, hoặc (ii) hướng dẫn ngay trong bộ câu hỏi. Trong trường hợp này, hướng dẫn nên được phân biệt với các câu hỏi bằng cách đặt chúng trong khung, hoặc viết bằng chữ in hoa hoặc in nghiêng hoặc kiểu chữ đặc biệt khác (xem Hình 4).

  7. Kiểm tra thử bộ câu hỏi

    Kiểm tra thử là áp dụng thử bộ câu hỏi trên một nhóm nhỏ những người tương đồng với các mẫu nghiên cứu nhưng không phải là một phần của mẫu nghiên cứu. Kết quả của kiểm tra thử được ghi nhận để soạn lại các câu hỏi. Ngay cả khi một bộ câu hỏi chuẩn được sử dụng, cũng cần được kiểm tra thử trong dân số đang được nghiên cứu, và tính toán hệ số tin cậy.

  8. Tập huấn phỏng vấn viên

    Người phỏng vấn phải được lựa chọn cẩn thận và được đào tạo thích đáng. Trong nghiên cứu khảo sát, họ trở thành xương sống của việc thu thập dữ kiện. Sẽ là chi tiêu không hợp lý nếu “tiết kiệm”’ chi phí về người phỏng vấn mà trang trải nhiều cho các khía cạnh khác của nghiên cứu. Việc thực hiện cũng trọng yếu như việc giám sát.

    Cần có hướng dẫn về tính bảo mật thông tin, sự kiên nhẫn và cần cù, giữ vui vẻ, có thái độ tích cực, tuân thủ hướng dẫn, vv… Người phỏng vấn luôn luôn phải được giám sát (một giám sát viên cho 4-6 người phỏng vấn).

  9. Tìm cách phỏng vấn lại

    Gọi lại hoặc quay lại hỏi người không trả lời phỏng vấn là cách hữu ích nhất để giảm thiểu tỉ suất không trả lời. Thời gian phỏng vấn lại phải trùng với thời gian mà người trả lời có nhiều khả năng đang ở nhà nhất. Người đã từ chối tham gia cũng nên được quay lại phỏng vấn với hy vọng rằng họ có thể sẽ hợp tác. Tuy nhiên việc phỏng vấn lại làm tăng chi phí của cuộc khảo sát và phải có giới hạn về số lần phỏng vấn lại có thể thực hiện được. Có lẽ hai hoặc ba cuộc lần tìm cách phỏng vấn lại đủ.

  10. Chỉnh sửa và mã hóa

    Giám sát viên cần kiểm tra bộ câu hỏi vào cuối mỗi ngày về việc bỏ sót, trả lời không đầy đủ, các phát biểu không rõ ràng hoặc chữ viết không đọc được. Người phỏng vấn có thể phải quay trở lại để thu thập thông tin còn thiếu hoặc không rõ ràng. Sau đó các câu trả lời được mã hóa cẩn thận với kiểm tra xác minh.

Comments

comments powered by Disqus