Phân loại nghiên cứu

by Kinh Nguyen

Thực nghiệm và lý thuyết

Về cơ bản, có thể chia triết lý tiếp cận nghiên cứu thành hai loại: thực nghiệm và lý thuyết. Nghiên cứu y học theo hướng tiếp cận thực nghiệm là chủ yếu, cụ thể là dựa trên quan sát và kinh nghiệm hơn là dựa trên lý thuyết và trừu tượng. Ví dụ, các nghiên cứu dịch tễ học dựa vào sự thu thập một cách hệ thống các quan sát về các hiện tượng có liên quan đến vấn đề sức khỏe đang quan tâm trong một dân số nhất định. Hơn nữa ngay cả trong việc trừu tượng hóa qua các mô hình toán học, hiểu biết về bệnh trạng và liên quan nhân quả không thể nào tăng thêm mà không có so sánh giữa lý thuyết xây dựng với những gì ta thực sự quan sát trong dân số. Nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết bổ sung lẫn nhau trong việc mở mang hiểu biết về một hiện tượng, trong dự đoán các sự kiện trong tương lai và trong phòng ngừa các sự kiện có hại đối với sức khỏe chung của dân số.

Các nghiên cứu thực nghiệm trong khoa học sức khỏe có thể mang bản chất định tính hoặc định lượng. Các nghiên cứu khoa học sức khỏe thường xử lý các thông tin có bản chất định lượng và tài liệu này sẽ tập trung vào loại nghiên cứu này. Hầu hết các phần đều liên quan đến việc xác định dân số quan tâm, các đặc tính (biến số) của các cá nhân (đơn vị) trong dân số và việc nghiên cứu sự biến thiên của các đặc tính này giữa các cá nhân trong dân số. Do vậy việc định lượng trong nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện qua ba quy trình liên quan đến tính toán: (a) đo lường các biến số; (b) ước lượng các tham số dân số (các tham số của phân bố xác suất thể hiện sự biến thiên của các quan sát trong dân số); và (c) kiểm định thống kê các giả thuyết, hoặc ước lượng ảnh hưởng của “cơ hội" lên sự biến thiên trong các cá thể hoặc trên nhóm cá nhân đang theo dõi.

Việc xem xét ảnh hưởng của cơ hội, xác suất là mang tính quyết định trong nghiên cứu sinh học, và là căn bản của thiết kế nghiên cứu. Trên tất cả, thiết kế nghiên cứu phải tính đến và đánh giá đúng, loại trừ vai trò của cơ hội để đảm bảo tính giá trị của nghiên cứu. Chính các phương pháp thống kê sẽ giúp bảo toàn được các định luật xác suất trong nghiên cứu và cho phép việc phân tích và diễn giải kết quả một cách hợp lý. Thống kê là công cụ giúp các nghiên cứu y tế mang tính thực nghiệm hơn là trừu tượng và cho phép ta củng cố thêm các phát hiện qua các quan sát và thử nghiệm hơn nữa.

Cơ bản và ứng dụng

Về chức năng nghiên cứu có thể chia thành nghiên cứu cơ bản (hoặc thuần túy) và nghiên cứu ứng dụng. Nghiên cứu cơ bản thường được coi là việc tìm kiếm kiến thức mà không xác định một mục tiêu thực tiễn hay một mục đích cụ thể. Nghiên cứu ứng dụng là theo định hướng vấn đề và hướng tới giải pháp cho một vấn đề đang tồn tại. Những tranh cãi về lợi ích cũng như giá trị đối với xã hội của các nghiên cứu cơ bản và ứng dụng vẫn đang tiếp diễn. Một số cho rằng khoa học phụ thuộc rất nhiều vào sự ủng hộ của xã hội nên cần tập trung trực tiếp vào giải pháp của các vấn đề thích đáng của con người, số khác lại cho rằng việc kiếm tìm khoa học sẽ có năng suất cao nhất khi được làm tự do và rằng những tiến bộ lớn nhất trong khoa học đều đã đến từ các nghiên cứu thuần túy. Sự công nhận chung có được là cần phải có sự cân bằng giữa hai loại nghiên cứu, các xã hội khá giả hơn và có kĩ thuật tiên tiến hơn có thể hỗ trợ nhiều hơn cho các nghiên cứu cơ bản so với các xã hội khan hiếm nguồn lực.

Tam giác nghiên cứu y tế

Một cách khác để phân loại nghiên cứu y tế là mô tả qua ba lĩnh vực hoạt động liên kết với nhau gồm y sinh, dịch vụ y tế và nghiên cứu hành vi, được gọi là tam giác nghiên cứu y tế. Nghiên cứu y sinh chủ yếu giải quyết về nghiên cứu cơ bản liên quan đến các quá trình xảy ra ở mức độ tế bào; nghiên cứu y tế liên quan đến các vấn đề trong môi trường xung quanh con người mà sẽ dẫn đến sự thay đổi ở mức độ tế bào; và khoa học hành vi giải quyết sự tương tác giữa người và môi trường theo cách phản ánh những niềm tin, thái độ và thực hành của cá nhân trong xã hội.

Comments

comments powered by Disqus